Theo một số ước tính, hơn 140,000 nhân sự trong các công ty công nghệ có trụ sở tại Hoa Kỳ đã bị sa thải hàng loạt vào năm 2023. Khả năng cao việc sa thải hàng loạt này vẫn chưa dừng lại, một phần nhờ vào sự điều chỉnh đối với tình trạng tuyển dụng quá nhiều năm 2021 và việc giới lãnh đạo dự đoán về điều kiện kinh tế khó khăn phía trước.
Đối với các giám đốc điều hành công nghệ cấp cao, tăng trưởng doanh thu giảm và triển vọng u ám vào năm 2023 đòi hỏi phải cắt giảm nhân sự và tập trung tuyển dụng lại vào các bộ phận có giá trị cao hơn. Tuy nhiên, khả năng lợi ích nó mang lại có thể chỉ là tạm thời, trong khi hệ quả lại lớn hơn nhiều so với những gì các nhà lãnh đạo tính toán.
Hiệu suất công việc giảm sút
Theo sau cơn sốt tăng trưởng chưa từng có của ngành công nghệ vài năm trước là tình trạng sa thải hàng loạt diễn ra trên toàn ngành. Điều này đang tạo ra một trong những phép thử lớn nhất của ngành công nghệ đối với niềm tin của lực lượng lao động trong thời gian gần đây. Việc cắt giảm việc làm đang gây căng thẳng cho những nhân viên đang tìm kiếm công việc mới và đặt những nhân viên còn lại của họ dưới họng súng để đạt được các mục tiêu tăng trưởng.
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Colorado, Đại học Portland và Texas A&M đã nhận định rằng “năng suất của những người ở lại giảm” sau việc cắt giảm nhân sự. Nghiên cứu do Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ công bố cho thấy sau khi sa thải, hiệu suất công việc của những người ở lại giảm 20%.
Một nghiên cứu khác của Cigna và Hiệp hội Quản lý Hoa Kỳ đã phát hiện ra rằng những nhân viên còn lại sau đợt sa thải hàng loạt đưa ra nhiều yêu cầu y tế hơn trước đây, đặc biệt là về sức khỏe tâm thần, lạm dụng chất gây nghiện và các vấn đề về tim mạch. Các nhà nghiên cứu của Đại học Stanford lưu ý rằng các biện pháp như thu hẹp quy mô hoặc sa thải hàng loạt có liên quan đến tình hình sức khỏe sa sút của những nhân viên còn lại của công ty.
Không chỉ vậy, hệ thống lãnh đạo cũng bị ảnh hưởng, đặc biệt là khi số lượng nhân viên bị sa thải lớn, làm giảm vốn tri thức trong tương lai của tổ chức. Các ngân hàng và công ty điện lực đã chứng kiến những hạn chế đối với sự gián đoạn của lãnh đạo sau khi sa thải hàng chục nghìn nhân viên chủ yếu là cấp dưới trong thời kỳ suy thoái của những năm 1980. Những công ty đó đã phải trả giá 20 năm sau khi họ cần những giám đốc điều hành có kinh nghiệm, hiểu biết để kế nhiệm thế hệ đang nghỉ hưu và chỉ tìm thấy một khoảng trống rộng lớn trong hàng ngũ
Các nhà nghiên cứu kết luận trong một đánh giá toàn diện về các tài liệu liên quan được xuất bản trong Management Learning rằng “Việc cắt giảm nhân viên không chỉ có nguy cơ phá hủy kiến thức tổ chức có giá trị ở cấp độ cá nhân và mạng lưới xã hội mà còn có thể phá vỡ sâu sắc các thủ tục, thói quen và văn hóa tổ chức đã được thiết lập. Những tác động gián tiếp hơn này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng về lâu dài.”
Sa thải hàng loạt không hẳn cần thiết
Các CEO nên cân nhắc việc cắt giảm lực lượng có thể muốn xem xét kỹ thực tế đáng ngạc nhiên của việc sa thải nhân viên.
Sa thải là tốn kém. Và trước khi họ tiết kiệm tiền, những người lãnh đạo đã phải trả một khoản giá trị không nhỏ.
Microsoft đã thông báo rằng họ sẽ tính một khoản phí 1,2 tỷ USD vào thu nhập để tính chi phí tức thời cho việc sa thải nhân viên, bao gồm các khoản thanh toán thôi việc, gia hạn phúc lợi, kỳ nghỉ tích lũy và các chi phí khác có thể được yêu cầu theo hợp đồng. Đó là 100.000 USD cho mỗi nhân viên bị sa thải.
Các điều kiện kinh tế có tính chu kỳ và các nhà tuyển dụng thường muốn lấp đầy những chỗ trống khi thời kỳ suy thoái kết thúc. Làm như vậy sẽ tốn nhiều thời gian và tiền bạc hơn vì nhân viên mới cần được đào tạo và giới thiệu trước khi họ làm việc hiệu quả. Kết hợp tất cả các chi phí này, việc sa thải nhân viên có thể không tiết kiệm được một xu nào. Nghiên cứu từ công ty tư vấn Bain Company cho biết: “Cắt giảm việc làm có thể tạo ra chi phí lớn hơn lợi ích”.
Điều này đặc biệt đúng nếu tình trạng suy thoái diễn ra ngắn và nhẹ nhàng như nhiều nhà kinh tế kỳ vọng vào tình hình của Mỹ trong năm nay.
Một số công ty đã học được bài học này một cách khó khăn trong thời kỳ suy thoái trước đây. Trong khúc dạo đầu của cuộc Đại suy thoái, Hãng hàng không Tây Bắc đã sa thải hàng trăm phi công. Khi hoạt động kinh doanh phục hồi, họ không thể thuê phi công đủ nhanh và mất hàng triệu USD doanh thu từ các chuyến bay bị hủy.
Chắc chắn rằng, việc sa thải nhân viên có thể là điều khó tránh khỏi trong một cú sốc kinh tế nghiêm trọng và đột ngột, chẳng hạn như đại dịch toàn cầu mỗi thế kỷ mới có một lần. Nhưng ngay cả trong trường hợp cực đoan, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thể muốn xem xét liệu việc sa thải nhân viên có thực sự cần thiết hay không. Một số công ty lớn đã từ chối sa thải hàng loạt trong hàng thập kỷ, kể cả trong thời kỳ đại dịch, và đã phát triển mạnh mẽ.
Toyota đã tránh sa thải nhân viên trong cuộc suy thoái 2008 - 2009, ngay cả khi General Motors, Ford Moto và Chrysler sa thải hàng chục nghìn người. Hãng xe đến nay vẫn không lép vế trong cuộc đua, giữ ngôi vương nhà sản xuất ô tô bán chạy nhất thế giới 3 năm liên tiếp. Lincoln Electric, nhà sản xuất thiết bị hàn lớn có trụ sở tại Ohio với các nhà máy trên toàn thế giới đã không sa thải nhân viên trong ít nhất 75 năm qua. Cổ phiếu của họ gần đây đã gần đạt mức cao nhất mọi thời đại.