Trung Quốc hiện đang đối mặt với tình trạng suy giảm thị phần sản xuất và xuất khẩu trong các lĩnh vực chính, với các chính sách “Zero Covid” gần đây là một yếu tố tác động lớn tới quốc gia từng có thời gian dài thống trị ngành thương mại toàn cầu.
Theo dữ liệu được chia sẻ với CNBC bởi công ty kinh tế vận tải MDS Transmodal, Trung Quốc đang dần mất đi tầm ảnh hưởng trong các ngành hàng tiêu dùng chính, bao gồm quần áo và phụ kiện, giày dép, đồ nội thất và hàng du lịch, đồng thời chứng kiến sự sụt giảm về tỷ trọng xuất khẩu từ khoáng sản đến công nghệ văn phòng.
Antonella Teodoro, cố vấn cấp cao tại MDS Transmodal cho biết: “Chính sách Zero Covid của Trung Quốc tác động lớn đến ngành sản xuất và các nhà sản xuất nước ngoài đang tìm kiếm các giải pháp thay thế cho ‘công xưởng của thế giới’ hiện tại”.
“Đi sâu vào các nhóm hàng hóa riêng lẻ xuất khẩu từ Trung Quốc, chúng tôi nhận thấy rằng Trung Quốc đang tiếp tục mất đi thị phần, bên cạnh đó Việt Nam đang là một trong những quốc gia giành được sự yêu thích trên trường quốc tế,” bà Teodoro nói. Quan điểm này phù hợp với các nghiên cứu thị trường khác gần đây chỉ ra những lợi ích mà các quốc gia Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng đạt được.
Bà Teodoro cho biết Việt Nam có vị trí gần Trung Quốc, cùng với lực lượng nhân công rẻ - đó là hai trong số những lý do tại sao Việt Nam được coi là một lựa chọn thay thế lí tưởng.
Hãng vận tải viễn dương MSC cùng với Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đã công bố vào tháng 7 về việc thành lập một dự án cảng container trung chuyển mới gần Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi hoàn thành, đây sẽ trở thành nhà ga lớn nhất cả nước. Ngoài ra, cả công ty vận tải container Maersk và hãng tàu CMA CGM hàng đầu thế giới đều đang đầu tư vào việc mở rộng cơ sở của riêng họ ở khu vực đó. “Các hãng tàu đang tìm kiếm thị trường mới và đầu tư và mở rộng thị trường đó,” bà Teodoro nói. “Họ nhận thức được sự thay đổi và đang tìm kiếm chỗ đứng trong một thị trường mới bằng những khoản đầu tư này”.
Sự cạnh tranh đã dần trở nên “nóng” hơn kể từ những năm trước Covid-19. Việt Nam đã chiếm thị phần ‘sư tử’ của ngành thương mại sản xuất bên ngoài Trung Quốc với mức tăng gần 360% trong thương mại đường xa kể từ năm 2014 - thời điểm Việt Nam bắt đầu đầu tư vào lĩnh vực hàng hải và sản xuất.
Theo MDS Transmodal, Malaysia và Bangladesh cũng là hai quốc gia đã “tách” ngành sản xuất hàng may mặc ra khỏi Trung Quốc, trong khi Đài Loan có mức tăng nhẹ trong ngành sản xuất kim loại.
Theo ông Akhil Nair, Phó chủ tịch cấp cao về sản phẩm ở Châu Á Thái Bình Dương của SEKO Logistics, kể từ khi Hoa Kỳ áp thuế thương mại đối với Trung Quốc vào năm 2018, đã có một cuộc “săn lùng” cho các địa điểm cung ứng thay thế, ban đầu chỉ giới hạn trong lĩnh vực thời trang và giày dép. Sau đó, tác động kép của việc lockdown và zero Covid ở Trung Quốc kèm theo sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng đã dẫn đến “một sự gia tăng nhanh chóng trong việc các công ty quốc tế tìm đến những lựa chọn an toàn hơn”.
Ông Nair cho biết SEKO đã chứng kiến sự gia tăng thương mại nội Á đối với dòng nguyên liệu thô và xuất khẩu hàng hóa thành phẩm từ Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác. “Mặc dù các quy định lockdown gần đây của Trung Quốc không ảnh hưởng đến hoạt động của tàu thuyền hoặc bản thân nhà ga trung chuyển, nhưng rõ ràng là nó vẫn có tác động đến các tành phần khác của chuỗi cung ứng như vận tải đường bộ, kho bãi CFS và bãi container…”
Dữ liệu từ công ty theo dõi hàng hóa Project44 cho thấy tổng công suất tàu TEU (container) rời các cảng Trung Quốc đã giảm mạnh kể từ đầu năm 2021. Theo ông Josh Brazil, phó chủ tịch phụ trách chuỗi cung ứng của Project44, công suất hàng tháng trước năm 2021 rơi vào khoảng 11,2 triệu TEU nhưng nay giảm xuống còn 8,6 triệu TEU.
Cùng với đó, theo số liệu của FreightWaves SONAR, số lượng các chủ hàng đặt hàng vận chuyển container qua hãng vận tải biển đã tiếp tục giảm. Các nhà quản lý hậu cần cho biết đơn đặt hàng đối với hàng hóa từ Trung Quốc đến Mỹ trong tháng 11 dự kiến sẽ giảm từ 40% đến 50%. Alan Baer, Giám đốc điều hành của OL USA, giải thích: “Sự kết hợp của hàng tồn kho dư thừa cùng với nhu cầu giảm tiếp tục đè nặng lên khối lượng nhập khẩu ở Thái Bình Dương.”