Cuộc chiến chống lạm phát bước vào “chặng cuối” trên toàn cầu

Lạm phát giảm mạnh trên khắp các châu lục là tin vui với kinh tế toàn cầu. 

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
1200x800.jpg

Lạm phát đang giảm nhanh hơn dự kiến ​​ở các nền kinh tế phát triển, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc chiến chống giá cả tăng cao kéo dài suốt hai năm của các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới.

LẠM PHÁT GIẢM MẠNH

Mức tăng giá tiêu dùng giảm xuống dưới 5% ở Anh vào tháng trước và khoảng 3% ở Mỹ và khu vực đồng euro, đang làm tăng kỳ vọng rằng các ngân hàng trung ương có thể đã xong việc và chuyển sang cắt giảm lãi suất vào năm tới.

Đó là một viễn cảnh đáng hoan nghênh cho nền kinh tế toàn cầu vốn đang gặp khó khăn bên ngoài nước Mỹ, làm tăng triển vọng hạ cánh mềm sau một loạt đợt tăng lãi suất lịch sử mà không khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh. Đặc biệt, châu Âu đang trên bờ vực suy thoái.

Lợi suất nợ chính phủ ở châu Âu và Mỹ đã sụt giảm khi các nhà đầu tư bắt đầu đánh giá cao việc cắt giảm lãi suất trước đó.

Suốt nhiều tháng trong năm nay, các nhà kinh tế đã bối rối không hiểu tại sao tăng trưởng và lạm phát không chậm lại ở tốc độ nhanh hơn mặc cho các đợt tăng lãi suất. Giờ đây, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rõ lạm phát đang bắt đầu giảm mạnh.

im-887694.jpg
Lạm phát ở Anh đã giảm trong tháng 10, nhưng Ngân hàng Trung ương Anh cho biết còn quá sớm để nghĩ đến việc cắt giảm lãi suất.

Stefan Gerlach, cựu phó thống đốc ngân hàng trung ương Ireland cho biết: “Đây chắc chắn là một bước ngoặt đối với lạm phát. Các nhà đầu tư có thể ngạc nhiên về tốc độ cắt giảm lãi suất của các ngân hàng trung ương trong năm tới, có thể là 1,5 điểm phần trăm”.

Lạm phát giảm mạnh trên khắp các châu lục cho thấy các yếu tố chung đã đẩy giá lên cao ngay từ đầu, đặc biệt là đại dịch Covid-19 và cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine. Những chuỗi cung ứng toàn cầu bị thắt chặt này đã làm giảm số lượng người trong lực lượng lao động và khiến giá năng lượng tăng cao, đặc biệt là ở châu Âu. Khi những lực lượng đó giảm bớt, áp lực giá cả sẽ giảm bớt một cách tự nhiên.

Lạm phát cũng được thúc đẩy bởi các yếu tố bên cầu, chẳng hạn như hàng nghìn tỷ USD chi tiêu kích thích của chính phủ ở Mỹ, cũng như nhu cầu bị dồn nén và tiết kiệm từ người tiêu dùng tích lũy trong đại dịch. Các nhà kinh tế cho biết, đó là lý do tại sao lạm phát cơ bản vẫn ở mức cao gần 4 năm sau khi đại dịch bắt đầu và tại sao cần phải tăng lãi suất để hạ thấp con số đó.

Ngay cả những quốc gia nơi lạm phát tỏ ra cứng đầu nhất, chẳng hạn như Vương quốc Anh, cũng đã bắt đầu cho thấy sự tiến bộ. Cơ quan thống kê cho biết hôm thứ tư rằng giá tiêu dùng đã tăng 4,6% trong tháng 10 so với tháng trước, giảm so với tỷ lệ lạm phát 6,7% được ghi nhận vào tháng 9 và là mức tăng chậm nhất kể từ tháng 10/2021. Các nhà kinh tế đã dự kiến ​​​​sẽ giảm xuống 4,8%.

Bruna Skarica, chuyên gia kinh tế tại Morgan Stanley cho biết: “Anh không còn bị coi là ngoại lệ lớn nữa khi nói đến lạm phát”.

Tin tức về sự giảm lạm phát của Vương quốc Anh theo sau báo cáo hôm thứ ba về mức giảm lạm phát của Mỹ lớn hơn dự kiến ​​xuống 3,2% trong tháng 10. Khu vực đồng euro cũng báo cáo lạm phát giảm xuống 2,9% trong tháng 10 từ mức 4,3% trong tháng 9. Giá tiêu dùng thấp hơn một năm trước ở Bỉ và Hà Lan.

Việc giảm giá tiêu dùng đã thuyết phục một số nhà hoạch định chính sách châu Âu rằng cuộc chiến nhằm kiềm chế lạm phát đã giành chiến thắng và trong một khoảng thời gian ngắn hơn so với những năm 1970, khi giá cả tăng vọt tương đương.

Bruno Le Maire của Pháp cho biết: “Chúng tôi đang trong quá trình thoát khỏi cuộc khủng hoảng lạm phát trước cuộc gặp với các bộ trưởng tài chính Liên minh châu Âu vào tuần trước. Trong vòng chưa đầy hai năm nữa, châu Âu sẽ kiểm soát được lạm phát, điều này đè nặng lên người dân của chúng ta, đè nặng lên các hộ gia đình, đặc biệt là những người ít giàu có hơn”.

Nhà đầu tư cũng lạc quan hơn. Theo dữ liệu từ Refinitiv, họ đang dự định việc cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang và Ngân hàng Trung ương Châu Âu bắt đầu vào mùa xuân tới và bởi Ngân hàng Anh vào mùa hè tới.

Các thị trường cũng dự tính 30% khả năng Fed sẽ tăng lãi suất lần nữa, từ mức hiện tại là 5,25% lên 5,5%, cho đến khi dữ liệu lạm phát của Mỹ được công bố vào thứ ba. Theo các nhà phân tích của Deutsche Bank, xác suất đó hiện đã giảm xuống còn 5%. Triển vọng cắt giảm lãi suất của Fed vào tháng 5 đã tăng từ 23% vào thứ hai lên 86% vào cuối ngày thứ ba.

Các ngân hàng trung ương tỏ ra thận trọng hơn sau khi vào năm ngoái họ bị bất ngờ trước tình trạng lạm phát dai dẳng. Ngân hàng Anh tháng trước cho biết còn quá sớm để nghĩ đến việc cắt giảm lãi suất, vì dự báo lạm phát sẽ đạt mục tiêu 2% vào cuối năm 2025. Các ngân hàng trung ương cũng chỉ ra mức lương vẫn tăng nhanh và nguy cơ giá năng lượng cao hơn nếu xung đột giữa Israel và Hamas lan sang các khu vực khác ở Trung Đông.

Các nhà kinh tế của Morgan Stanley kỳ vọng Ngân hàng Anh sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất bắt đầu từ tháng 5 tới, tiếp theo là Cục Dự trữ Liên bang và Ngân hàng Trung ương Châu Âu vào tháng 6. Bất kể thời điểm chính xác là khi nào, ngày càng có sự đồng thuận rằng lạm phát đang giảm dần và lãi suất sẽ thấp hơn.

Michael Saunders, cựu chuyên gia ấn định lãi suất của BOE, viết trong một báo cáo gửi khách hàng của Oxford Economics: “Chúng tôi dự đoán lạm phát và lãi suất sẽ giảm trên diện rộng vào năm 2024 ở các nền kinh tế tiên tiến”.

Nếu vậy, câu hỏi đặt ra ở đây là liệu các ngân hàng trung ương có tăng lãi suất quá mức hay không, đặc biệt là ở châu Âu.

Michael Saunders, cựu chuyên gia ấn định lãi suất của BOE, viết trong một báo cáo gửi khách hàng của Oxford Economics: “Chúng tôi dự đoán lạm phát và lãi suất sẽ giảm trên diện rộng vào năm 2024 ở các nền kinh tế tiên tiến”.

Các nhà kinh tế cho rằng những đợt tăng lãi suất này đang ảnh hưởng đến nền kinh tế, đè nặng lên hoạt động cho vay và chi tiêu. Quá trình tạo việc làm đang chậm lại và tỷ lệ thất nghiệp đang tăng cao ở cả hai bờ Đại Tây Dương, hạn chế tăng trưởng tiền lương.

Các nhà kinh tế cho biết, các hộ gia đình đang trở nên miễn cưỡng chi tiêu hơn vì lãi suất cao hơn khiến việc tiết kiệm trở nên có lợi hơn. Điều đó đè nặng lên triển vọng tăng trưởng trong những tháng tới.

Bộ Thương mại cho biết hôm thứ tư rằng doanh số bán lẻ của Mỹ đã giảm 0,1% trong tháng 10 so với một tháng trước đó. Đó là mức giảm đầu tiên kể từ tháng 3 và xuất hiện sau mức tăng 0,9% trong tháng 9. Tại khu vực đồng euro, dữ liệu chính thức công bố hôm thứ tư cho thấy sản lượng công nghiệp trong tháng 9 giảm 1,1% so với tháng trước.

CHẶNG CUỐI

Lạm phát giảm sẽ là tin tức đáng mừng cho các nhà lãnh đạo chính trị, ngay cả khi điều đó vẫn là chưa đủ để nâng cao được sự ủng hộ của họ.

Trong khi các yếu tố toàn cầu góp phần gây ra tình trạng lạm phát gia tăng tồi tệ nhất và phần lớn sự sụt giảm gần đây, các điều kiện kinh tế trong nước có thể sẽ quan trọng nhất khi các ngân hàng trung ương bước vào giai đoạn cuối cùng - còn gọi là “chặng cuối” - để đưa lạm phát xuống mức mục tiêu của họ khoảng 2%.

Tại Mỹ, lạm phát đang giảm do thị trường lao động và chi tiêu tiêu dùng giảm nhiệt nhưng vẫn ổn định. Điều này đã củng cố dự báo rằng áp lực giá sẽ tiếp tục giảm bớt mà không xảy ra suy thoái.

im-887706.jpg
Cửa hàng Printemps ở Paris đã sẵn sàng cho kỳ nghỉ lễ nhưng vẫn còn phải xem người tiêu dùng sẵn sàng chi bao nhiêu cho dịp cuối năm.

Ở châu Âu, bối cảnh kinh tế khó khăn hơn. Châu lục này phải đối mặt với những cơn gió ngược đối với tăng trưởng, từ thương mại toàn cầu chậm lại và tăng trưởng chậm chạp ở Trung Quốc, một thị trường xuất khẩu quan trọng, cho đến nỗ lực của các chính phủ nhằm giảm chi tiêu. Tòa án hiến pháp Đức hôm thứ tư đã ra phán quyết chống lại động thái của Chính phủ Thủ tướng Olaf Scholz nhằm tái sử dụng 60 tỷ euro trong quỹ đại dịch chưa sử dụng để tài trợ cho các sáng kiến ​​​​năng lượng xanh, tạo ra lỗ hổng lớn trong ngân sách nhà nước.

Các hộ gia đình châu Âu cũng miễn cưỡng hơn so với các hộ gia đình ở Mỹ trong việc chi tiêu tiền tiết kiệm thời đại dịch. Tất cả những điều đó có thể dẫn đến sự suy thoái sâu hơn và lạm phát giảm mạnh hơn ở châu Âu, khiến ECB phải cắt giảm lãi suất sớm hơn.

Bất chấp khả năng lãi suất thấp hơn trong tương lai, nhiều nhà kinh tế và nhà đầu tư cho rằng việc quay trở lại thời kỳ lãi suất cực thấp trước đại dịch là khó xảy ra, phản ánh căng thẳng địa chính trị và áp lực nhân khẩu học gia tăng.

Lực lượng lao động có thể sẽ giảm ở các nền kinh tế lớn, bao gồm cả Trung Quốc, trong những năm tới khi hàng triệu người thuộc thế hệ bùng nổ dân số nghỉ hưu, khiến tiền lương tăng cao. Và những căng thẳng địa chính trị giữa Trung Quốc và phương Tây có thể sẽ làm tăng chi phí sản xuất khi các công ty chuyển nhà máy sang các nước khác.

Có thể bạn quan tâm