Thế giới sắp đón "cú sốc Trung Quốc", hàng hoá giá rẻ "made in China" sẽ tràn ngập khắp mọi nơi

Một "cú sốc Trung Quốc" như những năm 2000 dường như sắp xảy ra...

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
Thế giới sắp đón "cú sốc Trung Quốc", hàng hoá giá rẻ "made in China" sẽ tràn ngập khắp mọi nơi

Vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, nền kinh tế Mỹ và toàn cầu đã trải qua tình cảnh được gọi là “cú sốc Trung Quốc”.

Sự bùng nổ nhập khẩu hàng hóa giá rẻ do Trung Quốc sản xuất giúp giữ lạm phát ở mức thấp nhưng phải trả giá bằng việc làm trong ngành sản xuất địa phương. Kết quả nghiên cứu cho thấy Trung Quốc khiến 2,4 triệu việc làm ở Mỹ mất đi từ năm 1999 đến 2011.

Người dân Mỹ cho tới giờ chắc hẳn vẫn còn nhớ về Hickory - thành phố nhỏ thuộc bang North Carolina, “thủ phủ” đồ nội thất nổi tiếng của cả nước. Hickory đã trải qua nhiều cú sốc kinh tế, tuy nhiên chẳng có cú sốc nào mạnh bằng cú sốc “Made in China” vào đầu những năm 2000. Vì hàng Trung Quốc, nhiều nhà máy ở đây phải đóng cửa, hàng nghìn việc làm mất đi và năm 2010 tỷ lệ thất nghiệp lên tới hơn 15%.

Stuart Shoun – một cư dân tại Hickory đã bị sa thải tới 3 lần trong vòng 7 năm. Sau khi mất việc, người thợ này theo học ngành kiến trúc ở trường đại học nhưng vẫn không thể tìm được việc và cuối cùng lại trở lại với nghề cũ.

Lâu nay các chuyên gia kinh tế vẫn nói rằng thương mại tự do tạo nên cả người thắng và kẻ thua nhưng kinh tế thế giới thì có lợi. Người Mỹ được mua hàng hóa nhập khẩu rẻ tiền, chất đầy ngôi nhà của mình với xe đạp, đồ trang sức và đồ làm bếp giá rẻ.

Cùng lúc đó các công ty Mỹ được tiếp cận nhiều thị trường mới. Người lao động ở những ngành bị ảnh hưởng bởi xuất khẩu sẽ phải nâng cao tay nghề hoặc chuyển đến nơi nào đó có nhiều cơ hội hơn.

Tuy nhiên Trung Quốc “nhấn chìm” tất cả những lý thuyết này. Không quốc gia nào có đủ tất cả những lợi thế như Trung Quốc: Có lượng lao động trẻ dồi dào, mức lương siêu thấp, được Chính phủ hỗ trợ, có đồng nội tệ giá rẻ và năng suất lao động liên tục tăng.

Chỉ 4 năm sau khi Trung Quốc gia nhập WTO năm 2011, tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc trong GDP Mỹ đã tăng gấp đôi. Mexico cần 12 năm để làm như vậy sau khi có NAFTA. Nhật Bản cũng tương tự. Đến năm ngoái, nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm 2,7% GDP Mỹ.

im-931645-9455.jpg
Xe đẩy em bé được sản xuất ở Trung Quốc.

Hơn 20 năm sau khi trải qua “cú sốc Trung Quốc”, trong bối cảnh Bắc Kinh tăng gấp đôi xuất khẩu để phục hồi tăng trưởng của đất nước, một “cú sốc” như kể trên dường như sắp lặp lại. Các nhà máy của nước này đang sản xuất ra nhiều ô tô, máy móc và thiết bị điện tử tiêu dùng hơn mức nền kinh tế trong nước có thể tiêu thụ.

Được hỗ trợ bởi các khoản vay giá rẻ của nhà nước, các công ty Trung Quốc đang tràn ngập thị trường nước ngoài với những sản phẩm mà họ không thể bán ở trong nước.

Một số nhà kinh tế nhận thấy cú sốc này của Trung Quốc đã lần đầu tiên đẩy lạm phát xuống thấp hơn. Nền kinh tế Trung Quốc hiện đang chậm lại, trong khi ở thời kỳ trước thì bùng nổ mạnh mẽ.

Kết quả là, tác động giảm phát của hàng hóa giá rẻ do Trung Quốc sản xuất sẽ không được bù đắp bởi nhu cầu của Trung Quốc đối với quặng sắt, than đá và các hàng hóa khác.

Trung Quốc cũng là một nền kinh tế lớn hơn nhiều so với trước đây, chiếm nhiều sản lượng sản xuất của thế giới hơn. Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, nước này chiếm 31% sản lượng sản xuất toàn cầu vào năm 2022 và 14% tổng lượng hàng hóa xuất khẩu. Hai thập kỷ trước, tỷ trọng sản xuất của Trung Quốc chưa đến 10% và xuất khẩu dưới 5%.

ĐẦU TƯ VÀO SẢN XUẤT

Đầu những năm 2000, tình trạng sản xuất dư thừa chủ yếu đến từ Trung Quốc, trong khi các nhà máy ở nơi khác đều đóng cửa. Giờ đây, Mỹ và các quốc gia khác đang đầu tư mạnh mẽ và bảo vệ các ngành công nghiệp của chính họ khi căng thẳng địa chính trị gia tăng.

Các công ty Trung Quốc như nhà sản xuất pin Contemporary Amperex Technology đang xây dựng nhà máy ở nước ngoài để xoa dịu sự phản đối đối với hàng nhập khẩu, mặc dù họ đã sản xuất được phần lớn thứ thế giới cần ở trong nước.

Kết quả có thể là một thế giới tràn ngập hàng hóa sản xuất nhưng lại thiếu khả năng chi tiêu để mua chúng - một công thức cổ điển khiến giá cả giảm.

Tình hình sẽ không giống cú sốc Trung Quốc như trước đây.

​Thomas Gatley, chiến lược gia Trung Quốc tại Gavekal Dragonomics cho biết: “Sự cân bằng tác động của Trung Quốc đối với giá cả toàn cầu thậm chí còn nghiêng rõ ràng hơn theo hướng giảm phát”.

Đối mặt với tình trạng đó, nhiều nơi đã có những biện pháp phản kháng. Mỹ, châu Âu và Nhật Bản không muốn quay lại thời kỳ đầu những năm 2000, khi hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc khiến nhiều nhà máy của họ phải phá sản.

Vì vậy, họ đã chi hàng tỷ USD để hỗ trợ cho các ngành được coi là chiến lược và áp đặt hoặc đe dọa áp thuế đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc. Dân số già đi và tình trạng thiếu lao động dai dẳng ở các nước phát triển có thể bù đắp thêm một số áp lực giảm phát mà Trung Quốc gây ra lần này.

David Autor, giáo sư kinh tế tại Viện Công nghệ Massachusetts và là một trong những tác giả của bài báo năm 2016 mô tả cú sốc ban đầu ở Trung Quốc cho biết: “Tình hình sẽ không giống cú sốc Trung Quốc như trước đây”.

MỘT KIỂU CÚ SỐC KHÁC

Mặc dù vậy, Autor cho biết, “mối lo ngại hiện tại trở nên cơ bản hơn” vì Trung Quốc đang cạnh tranh với các nền kinh tế tiên tiến về ô tô, chip máy tính và máy móc phức tạp - những ngành có giá trị cao hơn được coi là trọng tâm hơn đối với vị trí dẫn đầu về công nghệ.

Cú sốc đầu tiên của Trung Quốc xảy ra sau một loạt cải cách tự do hóa ở Trung Quốc vào những năm 1990 và việc nước này gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2001.

Đối với người tiêu dùng Mỹ, điều này mang lại lợi ích đáng kể. Một bài báo năm 2019 cho thấy giá tiêu dùng ở Mỹ đối với hàng hóa giảm 2% trên mỗi điểm phần trăm tăng thêm thị phần mà hàng nhập khẩu của Trung Quốc giành được, với những lợi ích lớn nhất thuộc về những người có thu nhập thấp và trung bình.

Nhưng “cú sốc Trung Quốc” cũng gây áp lực lên các nhà sản xuất trong nước. Năm 2016, Autor và các nhà kinh tế khác ước tính rằng Mỹ đã mất hơn 2 triệu việc làm từ năm 1999 đến năm 2011 do hàng nhập khẩu của Trung Quốc, khi các nhà sản xuất đồ nội thất, đồ chơi và quần áo gặp khó khăn trước sự cạnh tranh và người lao động ở các cộng đồng hẻo lánh phải vật lộn để tìm việc làm.

Một phần tiếp theo dường như đang được tiến hành.

Nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 5,2% trong năm ngoái, một tỷ lệ thấp so với tiêu chuẩn của nước này và dự kiến sẽ chậm lại hơn nữa khi cuộc khủng hoảng bất động sản kéo dài ảnh hưởng đến đầu tư và người tiêu dùng hạn chế chi tiêu. Capital Economics, một công ty tư vấn, cho rằng tốc độ tăng trưởng hàng năm sẽ chậm lại khoảng 2% vào năm 2030.

Bắc Kinh đang tìm cách tạo ra một bước ngoặt kinh tế bằng cách đổ tiền vào các nhà máy, đặc biệt là sản xuất chất bán dẫn, hàng không vũ trụ, ô tô và thiết bị năng lượng tái tạo, rồi bán kết quả dư thừa thu được ở nước ngoài.

GIẢM PHÁT Ở TRUNG QUỐC

Tuy nhiên, nhu cầu yếu và dư thừa công suất có nghĩa là giá sản xuất của Trung Quốc đã giảm trong 16 tháng, dẫn đầu là hàng tiêu dùng và hàng hóa lâu bền, thực phẩm, kim loại và máy móc điện.

Động lực giảm phát đó đang xuất hiện trên khắp thế giới. Giá hàng nhập khẩu của Mỹ từ Trung Quốc đã giảm 2,9% trong tháng 1 so với một năm trước đó, trong khi giá hàng nhập khẩu từ Liên minh châu Âu, Nhật Bản và Mexico đều tăng.

Tuy nhiên, không giống như đầu những năm 2000, thế giới phương Tây hiện coi Trung Quốc là đối thủ kinh tế và đối thủ địa chính trị chính của mình. EU đang xem xét liệu xe điện do Trung Quốc sản xuất có được trợ cấp không công bằng và có phải chịu thuế hoặc các hạn chế nhập khẩu khác hay không.

gettyimages-535492222-scaled-1266.jpg
Bắc Kinh đang tìm cách tạo ra một bước ngoặt kinh tế bằng cách đổ tiền vào các nhà máy.

Cựu Tổng thống Donald Trump, người đang chạy đua cho cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11, đã đưa ra ý tưởng đánh thuế nhập khẩu từ Trung Quốc từ 60% trở lên.

Chủ nghĩa bảo hộ như vậy có thể chuyển một số tác động giảm phát sang các khu vực khác trên thế giới, khi các nhà xuất khẩu Trung Quốc tìm kiếm thị trường mới ở các nước nghèo hơn.

Những nền kinh tế đó có thể chứng kiến các ngành công nghiệp non trẻ của mình bị thu hẹp lại trước sự cạnh tranh của Trung Quốc, giống như những gì Mỹ đã làm trong thời kỳ trước đó.

Không giống như Nhật Bản hay Hàn Quốc - những quốc gia từ bỏ sản xuất chi phí thấp để chuyển sang xuất khẩu giá trị cao hơn, Trung Quốc vẫn duy trì vị thế dẫn đầu trong các lĩnh vực chi phí thấp ngay cả khi nước này đẩy mạnh vào các sản phẩm thường do các nền kinh tế tiên tiến thống trị.

Rory Green, nhà kinh tế trưởng về Trung Quốc tại GlobalData–TS Lombard cho biết Trung Quốc đại diện cho “một thách thức trọng thương độc đáo”.

Có thể bạn quan tâm