Theo một báo cáo mới của Asia Research Engagement (ARE), nếu Đông Nam Á muốn ngăn chặn cuộc khủng hoảng biến đổi khí hậu, thì điều cần thiết lúc này là giảm bớt sản xuất protein động vật và chuyển sang các nguồn thực vật được nuôi trồng hoặc các nguồn thay thế khác vào năm 2030.
ENVIRONMENTAL FOOTPRINT - DẤU CHÂN SINH THÁI
Chăn nuôi quy mô lớn được coi là nguồn phát thải carbon chính cũng như “thủ phạm” của nạn phá rừng và suy giảm đa dạng sinh học.
Theo báo cáo, sản xuất chăn nuôi để lại ảnh hưởng tới môi trường lớn hơn so với tất cả các loại cây trồng ăn được cộng lại vì nó sử dụng nhiều tài nguyên hơn và sử dụng nhiều đất, nước, động vật và kháng sinh hơn.
Mặc dù đây là vấn đề toàn cầu, nhưng nó đặc biệt quan trọng đối với các nước châu Á vì lục địa này cung cấp hơn một nửa protein động vật cho thế giới, bao gồm cả động vật trên cạn và hải sản, ARE nhấn mạnh trong báo cáo.
Thêm vào đó, khu vực này cũng là nơi có dân số phát triển nhanh nhất, một yếu tố thúc đẩy lượng tiêu thụ thịt lớn. Vào năm 2020, Malaysia và Việt Nam đã tiêu thụ từ 8,9 đến 12,3 kg protein bình quân đầu người từ thịt và hải sản, cao hơn nhiều so với mức khuyến nghị là 5,1 kg do Ủy ban EAT-Lancet, một nhóm các nhà khoa học toàn cầu đưa ra.
Mirte Gosker, giám đốc điều hành của Viện Thực phẩm Tốt Châu Á Thái Bình Dương, một tổ chức tư vấn tập trung vào các loại protein thay thế cho biết: “Điều này còn rắc rối gấp đôi vì một phần đáng kể đậu nành làm thức ăn cho gia súc ở châu Á được nhập khẩu từ Brazil, Argentina và Paraguay - từ đó làm tăng dấu chân sinh thái (environmental footprint) tổng thể của ngành sản xuất động vật”.
ARE chỉ ra rằng, mặc dù các sản phẩm làm từ thực vật như đậu phụ, tempeh và đậu từ lâu đã là một phần của chế độ ăn truyền thống của người châu Á, nhưng về mặt lịch sử, chúng không có chức năng thay thế thịt trong văn hóa ẩm thực.
Bà Mirte Gosker cho biết: “Nếu các quốc gia ưu tiên sản xuất và phát triển các loại protein thay thế, thì các lợi ích về môi trường sẽ là rất lớn”. Tuy nhiên, việc sản xuất thực phẩm thân thiện với môi trường cũng cần tới năng lượng, cụ thể là điện, vì vậy nó sẽ dựa vào năng lượng tái tạo để phát triển bền vững, bà Gosker lưu ý.
Để Đông Nam Á có thể đáp ứng mục tiêu của Tổ chức Nghiên cứu Châu Á là chuyển sang các loại protein thay thế vào năm 2030, chính sách của chính phủ, chiến lược của công ty và nguồn tài chính đa phương phải phù hợp.
LỰA CHỌN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
Thực phẩm thay thế, cho dù có nguồn gốc từ thực vật, có nguồn gốc từ quá trình lên men hay được trồng trong phòng thí nghiệm, đều mang ý nghĩa quan trọng đối với an ninh khí hậu giống như năng lượng tái tạo và giảm thiểu nhựa sử dụng một lần.
Để so sánh, việc đầu tư vào sản xuất các sản phẩm thay thế thịt và sữa sẽ giúp giảm lượng khí nhà kính nhiều hơn bảy lần so với các tòa nhà xanh và hơn mười một lần so với ô tô không khí thải, một ghi chú của Boston Consulting Group năm 2022 chỉ ra.
Dựa trên báo cáo của ARE cho biết thêm, đến năm 2060, khả năng cao các loại protein thay thế ở Đông Nam Á và các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương khác sẽ chiếm hơn một nửa sản lượng protein. “Để đạt được thành công sẽ cần tới một nguồn vốn chuyên dụng, đòi hỏi sự cam kết bền vững của ngành công nghiệp thực phẩm châu Á cũng như các nhà đầu tư và ngân hàng”, báo cáo lưu ý.
Các nhà đầu tư quốc tế đang ngày càng bày tỏ sự quan tâm tới lĩnh vực này. Theo The Good Food Institute, vốn mạo hiểm đầu tư vào các loại protein thay thế đã tăng từ 1 tỷ USD vào năm 2019 lên 5 tỷ USD vào năm 2021. Các công ty lên men tập trung vào protein thay thế đã nhận được 1,7 tỷ USD đầu tư vào năm 2021, cao hơn gấp đôi so với mức 600 triệu USD của năm 2020, trong khi các công ty thịt và hải sản nuôi trồng nhận được 1,4 tỷ USD đầu tư, gấp hơn 3 lần so với 400 triệu USD huy động được vào năm 2020, dựa trên dữ liệu từ The Good Food Institute.
Tuy nhiên, điều khó dự đoán nhất ở đây vẫn là sở thích và lựa chọn của người tiêu dùng.
Bên cạnh việc tập trung vào protein thay thế, bà Huang đề xuất thêm các giải pháp cho thực hành chăn nuôi bền vững. Ví dụ, trong lĩnh vực sữa, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tập trung vào quá trình khử carbon thông qua phương thức sử dụng điện sản xuất từ khí sinh học (quy trình biến phân bò thành điện).
Michelle Huang, nhà phân tích thực phẩm tiêu dùng tại Rabobank, nói với CNBC rằng khách hàng sẽ là nhân tố quyết định sự phát triển của các loại protein thay thế trong tương lai. Hiện tại, người tiêu dùng thường cho rằng hương vị, kết cấu và giá cả là rào cản chính đối với việc tiêu thụ các loại protein thay thế.
“Chúng tôi chưa quan sát thấy những đột phá về công nghệ để đạt được hương vị và giá cả ngang bằng (hoặc gần ngang bằng) với các sản phẩm thịt thông thường. Nếu không có sự cải thiện về hương vị và giá cả, các thương hiệu sẽ gặp khó khăn trong mục tiêu chuyển từ sự tò mò ban đầu sang thói quen mua hàng lặp lại”, bà Michelle Huang nói thêm.
Kết luận, các chuyên gia đều nhất trí rằng cần có nhiều đầu tư hơn từ các bên liên quan thuộc khu vực công và tư nhân vào nghiên cứu, phát triển và đào tạo tay nghề lao động để các sản phẩm protein thay thế có thể sớm thâm nhập vào thị trường tiêu dùng đại chúng.