Năm ngoái, số lượng lao động nước ngoài tại Nhật Bản đạt kỷ lục 2,04 triệu, tăng 12,4% so với năm 2022. Nguồn lao động này dự kiến sẽ tiếp tục tăng với tốc độ nhanh khi Nhật Bản tìm kiếm thêm nhân viên cho các dây chuyền lắp ráp, công nhân xây dựng, người hái rau và người chăm sóc người già.
KỶ NGUYÊN NHẬP CƯ Ồ ẠT
Junji Ikeda, chủ tịch Saikaikyo, một cơ quan có trụ sở tại Hiroshima chuyên cung cấp và giám sát lao động nước ngoài cho biết: “Nhật Bản đang bước vào kỷ nguyên nhập cư nước ngoài ồ ạt”.
Trong khi nhiều người mới hòa nhập vào cơ cấu quốc tế của các thành phố lớn, tác động của họ đặc biệt dễ thấy ở các thị trấn nhỏ như Oizumi, nằm cách Tokyo ở tỉnh Gunma khoảng hai giờ đi tàu.
Vào bất kỳ ngày nào trong tuần, không thể thấy ngay rằng khoảng 1/5 trong số khoảng 42.000 cư dân của Oizumi là người sinh ra ở nước ngoài, bởi vì hầu hết họ đều đang đi làm. Nhưng có một bằng chứng rõ ràng hơn: Các biển báo tại ga xe lửa địa phương có chỉ dẫn bằng tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Anh và tiếng Nhật.
Oizumi cho thấy rằng xã hội Nhật Bản đang già đi nhanh chóng và vì vậy họ có thể sẽ mở cửa cho lao động nước ngoài để giải quyết tình trạng thiếu lao động. Cuối cùng, đó có thể là hy vọng tốt nhất của đất nước này trong việc ngăn chặn tình trạng suy giảm dân số nhanh chóng khiến sức mạnh kinh tế, mức sống và việc duy trì hệ thống phúc lợi của cả nước gặp rủi ro.
Cuộc khủng hoảng lao động kinh niên của Nhật Bản đã bùng phát kể từ khi dân số trong độ tuổi lao động đạt đỉnh điểm vào năm 1995. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn để tiếp tục hoạt động. Một năm trước, Thủ tướng Fumio Kishida đã cảnh báo rằng “đất nước hiện đang đứng trên bờ vực không thể duy trì các chức năng xã hội” vì tỷ lệ sinh thấp.
Theo một nghiên cứu của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, Nhật Bản sẽ cần 6,74 triệu lao động nước ngoài vào năm 2040 để đạt được mục tiêu tăng trưởng. Theo một báo cáo của Teikoku Databank, hơn 2/3 số doanh nghiệp vừa và nhỏ cho biết họ phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động, và số vụ phá sản do hạn chế về nhân lực đã đạt mức cao kỷ lục vào năm ngoái.
Tuy nhiên, ngay cả với dòng lao động ổn định, dân số nhập cư của Nhật Bản chỉ khoảng 2%, thấp nhất trong nhóm G7 theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế.
Tỷ lệ 2% phản ánh sự miễn cưỡng trong việc khuyến khích người lao động nước ngoài xây dựng cuộc sống ở Nhật Bản. Rất nhiều điều đã thay đổi trong một thế kỷ rưỡi qua nhưng những cảm xúc lẫn lộn vẫn còn đọng lại.
Một cuộc khảo sát năm 2018 cho thấy chỉ 23% số người được hỏi cảm thấy nên cho phép nhiều người nhập cư hơn và các cuộc thăm dò khác phản ánh lo ngại rằng dòng vốn gia tăng sẽ “dẫn đến tỷ lệ tội phạm tăng đột biến” và “gây nguy hiểm cho an ninh trật tự”.
Với vấn đề nhập cư, chính phủ đã thực hiện những bước đi nhỏ dưới vỏ bọc của những sáng kiến khác nhau. Làn sóng đầu tiên của người Nam Mỹ gốc Nhật bắt đầu vào khoảng năm 1990 đã tạo nên hình ảnh về sự quay trở lại Nhật Bản của nhiều thế hệ. Khi Nhật Bản lần đầu tiên chào đón “thực tập sinh kỹ thuật nước ngoài” vào năm 1993, lời mời làm việc được coi là một chương trình dạy cho người nước ngoài những kỹ năng mới.
Oizumi đi đầu trong các sáng kiến này, chào đón người lao động đến khu vực làm việc tại các nhà máy của các công ty bao gồm Panasonic, Ajinomoto và Subaru, cùng với các nhà thầu phụ của họ.
DẦN CẢI THIỆN
Mario Makuda, một người Brazil gốc Nhật vẫn sống ở Oizumi, đến đây lần đầu vào năm 1991 và mọi chuyện khởi đầu không mấy suôn sẻ. Makuda, hiện là chủ tịch của Promotion Brasil, một công ty tổ chức các sự kiện văn hóa kết nối Nhật Bản và Brazil. Ông thường làm việc 16 giờ một ngày không nghỉ cuối tuần trước khi buộc phải nghỉ hưu vì bệnh viêm phổi.
Đồng nghiệp của ông vẫn từ chối nhớ tên ông và thay vào đó gọi ông là gaijin, hay người nước ngoài. Ông thường bị loại khỏi các cuộc họp mặt của công ty.
Makuda nói: “Người dân Nhật Bản nên ghi nhận những đóng góp kinh tế to lớn mà người nước ngoài đã thực hiện. Nhiều công ty ở Oizumi, từ nhà bán lẻ đồ điện tử đến siêu thị, đã tồn tại được nhờ sự giúp đỡ của người Brazil”.
Cho đến ngày nay, một số quan điểm vẫn không thay đổi. Shuichi Ono, phó chủ tịch Hiệp hội Du lịch Oizumi-machi cho biết: “Một số người vẫn coi người nước ngoài chỉ như đơn vị lao động để lấp đầy khoảng trống hơn là con người”.
Chính quyền thị trấn đã làm nhiều việc để cải thiện tình trạng này. Ngoài việc treo biển hiệu đa ngôn ngữ, tòa thị chính còn xuất bản bản tin hàng tháng bằng tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Anh, đồng thời có thông dịch viên tiếng Bồ Đào Nha để giúp đỡ các công việc hành chính.
Theo Ono, sự hỗ trợ hành chính như vậy đã giúp người nước ngoài hòa nhập cộng đồng một cách suôn sẻ, nhưng yếu tố lớn hơn là dần dần thời gian trôi qua.
Phiên bản hiện tại của chương trình lao động nước ngoài đã được cựu Thủ tướng Shinzo Abe đưa ra vào năm 2019 và phần lớn giới hạn người nộp đơn ở thời gian lưu trú tối đa 5 năm. Chỉ có 29 người trong chương trình đó đủ điều kiện để tái nhập cảnh không giới hạn vào nước này.
Chính phủ hiện đang cải tiến chương trình này nhằm làm cho hấp dẫn hơn đối với người tìm việc nước ngoài. Phiên bản mới, dự kiến sẽ được triển khai vào đầu năm tới, sẽ tăng cường giám sát và giúp người lao động chuyển sang công ty mới dễ dàng hơn, một lựa chọn có thể buộc người sử dụng lao động phải đối xử tốt hơn với nhân viên để giữ chân họ. Mục tiêu của chương trình cũng sẽ trở nên minh bạch hơn.
Ikeda của Saikaikyo - một trong hơn 9.300 đại lý tham gia tìm nguồn cung ứng nhân sự từ nước ngoài cho biết: “Sự thay đổi đáng kể là hệ thống mới nói rõ rằng mục đích là nhằm đảm bảo lực lượng lao động”.
Truyền thông địa phương đưa tin vào tháng 1 rằng, chính phủ cũng có thể bổ sung ngành vận tải vào chương trình. Các quy định chặt chẽ hơn của ngành về giờ làm việc sẽ có hiệu lực do mùa xuân có nguy cơ làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu tài xế xe tải và làm chậm việc giao hàng mọi thứ, từ nguồn cung cấp linh kiện cho nhà máy đến thực phẩm tươi sống trên kệ siêu thị.
Theo cựu giám đốc điều hành Ngân hàng Nhật Bản Kenzo Yamamoto, sự xuất hiện của người lao động nước ngoài đang giúp hơn một nửa số tỉnh của Nhật Bản chứng kiến dòng dân cư ròng đổ vào. Tại quận Hiroshima, lực lượng lao động nước ngoài đã tăng 13,9% tính đến tháng 10/2023 so với một năm trước đó.
Để đáp lại, các cơ quan chức năng đã tìm kiếm lao động nhập khẩu cho các ngành công nghiệp từ sản xuất và chăm sóc người già đến thu hoạch và chế biến hàu. Tỉnh này sản xuất khoảng 60% lượng hàu của Nhật Bản.
Tatsuya Hasegawa, giám đốc bộ phận chính sách lao động và việc làm của tỉnh Hiroshima cho biết: “Chỉ riêng công nhân Nhật Bản là không đủ để đảm bảo lực lượng lao động cần thiết, đặc biệt là trong ngành sản xuất và đóng tàu”.
Chính quyền khu vực tổ chức các hội thảo về cách định hướng quy trình tiếp nhận lao động nước ngoài và phân phát tài liệu minh họa cách sử dụng các cách diễn đạt đơn giản bằng tiếng Nhật để tương tác suôn sẻ tại nơi làm việc.
Hasegawa cho biết: “Ngày càng có nhiều công ty yêu cầu thông tin về việc tiếp nhận lao động nước ngoài. Chúng tôi đã chứng kiến sự gia tăng nhu cầu của các công ty đối với những buổi hội thảo này”.
Tại Onomichi – một nhà chế biến hàu Kunihiro có trụ sở tại Hiroshima, khoảng 15% nhân viên là người Việt Nam nướng hàu và đóng gói lên băng chuyền. Sách hướng dẫn bằng tiếng Việt được cung cấp để giải thích một số thao tác và áp phích hình ảnh khuyên người lao động nên cẩn thận khi cầm tay quanh các máy móc nguy hiểm và đi cẩn thận trên sàn trơn trượt.
Tuy nhiên, vẫn có thể làm nhiều hơn nữa để khuyến khích người lao động nước ngoài ở lại và cung cấp cơ sở hạ tầng xã hội tốt hơn để họ có thể ổn định cuộc sống. Điều đó sẽ mang lại sự ổn định hơn cho lực lượng lao động đồng thời mang lại nhiều chi tiêu và doanh thu hơn cho cộng đồng địa phương để duy trì các cửa hàng và dịch vụ thay vì đóng cửa.
Yasuko Iwashita, phó giáo sư tại Đại học Hiroshima Bunkyo cho biết: “Sẽ tốt hơn nếu Nhật Bản chào đón những người nước ngoài sẵn sàng ở lại lâu dài, thay vì liên tục gửi họ trở lại. Tất cả những lời bàn tán đều là về gánh nặng lớn của việc tiếp nhận lao động nước ngoài, nhưng họ cũng chính là những người nộp thuế và người tiêu dùng”.