Theo cơ quan lương thực của Liên Hợp Quốc, giá gạo hiện đang ở mức cao nhất trong gần 12 năm, sau khi lệnh cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ và điều kiện thời tiết bất lợi làm ảnh hưởng đến sản xuất và nguồn cung lương thực thiết yếu của châu Á.
“Giá gạo toàn cầu đặc biệt đáng lo ngại. Có vẻ rõ ràng là biến động giá thực phẩm sẽ tiếp tục trong những tháng tới”, ông Qingfeng Zhang, giám đốc cấp cao của Ngân hàng Phát triển Châu Á, nói với CNBC.
RỦI RO TRÊN THỊ TRƯỜNG TOÀN CẦU
Ngoài Ấn Độ, lạm phát lương thực ở châu Á trong năm nay đã tương đối được kiểm soát. Tuy nhiên, sự kết hợp của nhiều yếu tố đang làm dấy lên lo ngại rằng tình trạng thiếu nguồn cung gạo có thể đánh dấu sự tăng giá trở lại ở cả các mặt hàng thực phẩm khác ở châu Á.
Các yếu tố được nhắc tới bao gồm khí hậu khắc nghiệt do sự nóng lên toàn cầu, hiện tượng El Nino xuất hiện lại sau 7 năm, Nga rút khỏi sáng kiến ngũ cốc ở Biển Đen và các chính sách bảo hộ lương thực dưới hình thức hạn chế thương mại.
Bà Erica Tay, chuyên gia kinh tế của Maybank phụ trách Thái Lan và Trung Quốc cho biết, mối quan tâm chính là không chỉ nguồn cung gạo bị ảnh hưởng mà sản lượng nông nghiệp nói chung cũng có thể chịu ảnh hưởng xấu. “Điều đó có thể dẫn đến rủi ro tăng cao hơn đối với lạm phát giá tiêu dùng”, bà Tay nói thêm.
Bên cạnh gạo, những người theo dõi thị trường cũng đang để mắt đến một số loại thực phẩm khác.
Theo ông Paul Hughes của S&P Global, điều kiện khô hạn cũng sẽ ảnh hưởng đến việc sản xuất dầu cọ ở Malaysia và Indonesia - thành phần chính cho dầu ăn - cũng như lúa mì và lúa mạch của Úc.
“Giá lúa mì tăng ở các nước như Pakistan và Uzbekistan đã khiến người tiêu dùng chuyển sang sử dụng gạo, từ đó lại gây áp lực lên giá gạo trong nước”, ông Zhang của ADB chỉ ra.
Thay đổi thời tiết cũng gây bất lợi đến giá rau quả, với Ấn Độ đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng cà chua khi giá tăng vọt hơn 300% vì lũ lụt xảy ra ở các bang sản xuất cà chua lớn như Andhra Pradesh, Maharashtra, Karnataka.
Ngoại trừ Australia, Ấn Độ và Thái Lan, hầu hết các quốc gia ở châu Á-Thái Bình Dương đều là những nhà nhập khẩu lương thực ròng. Singapore và Hồng Kông phụ thuộc 100% vào nhập khẩu đối với nhu cầu tiêu thụ gạo.
LẠM PHÁT CÓ THỂ TĂNG TRỞ LẠI
Nomura xác định Philippines là quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước sự tăng vọt của giá lương thực, do tỷ trọng thực phẩm trong giỏ lạm phát giá tiêu dùng chiếm tỷ lệ cao ở mức 34,8%, trong đó chỉ riêng gạo đã chiếm 8,9% trong rổ.
Trong một báo cáo ngày 3 tháng 8, Morgan Stanley dự kiến sự biến động xung quanh El Nino trước tiên sẽ biểu hiện thông qua lạm phát và sau đó là cán cân thương mại ròng. Điều này đặc biệt là do thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn - khoảng 30% đến 40% - trong rổ chỉ số giá tiêu dùng ở hầu hết các nước mới nổi ở châu Á.
Điều này khiến các nền kinh tế châu Á-Thái Bình Dương dễ bị tổn thương trước sự gia tăng giá lương thực trên toàn cầu – mặc dù tác động của nó có thể không thể hiện đầy đủ trong các con số lạm phát cho đến nhiều tháng sau đó.
Sự chậm trễ có thể là kết quả của các biện pháp của chính phủ, chẳng hạn như kiểm soát giá và trợ cấp, sẽ được sử dụng để làm giảm tác động của việc tăng giá lương thực ở thị trường trong nước. Nhưng điều này có thể cũng sẽ làm trầm trọng thêm áp lực giá lương thực toàn cầu.
“Độ trễ là khác nhau giữa các quốc gia, nhưng trung bình, chúng tôi nhận thấy độ trễ sáu tháng giữa lạm phát giá lương thực toàn cầu và lạm phát lương thực CPI ở châu Á”, hai nhà kinh tế Sonal Varma và Si Ying Toh của Nomura đã viết trong một ghi chú ngày 11/8.
Họ dự đoán, độ trễ này có thể dao động từ ba tháng ở Indonesia đến chín tháng ở Hàn Quốc. Điều này có nghĩa là bất kỳ sự tăng đột biến nào về giá thực phẩm sẽ dẫn đến lạm phát thực phẩm vào cuối năm nay hoặc đầu năm 2024.
Paul Hughes, nhà kinh tế nông nghiệp và giám đốc nghiên cứu của S&P Global cho biết các hộ gia đình có thu nhập thấp chắc chắn sẽ là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất, dù họ ở các nước phát triển hay đang phát triển. “Những hộ gia đình này có xu hướng chi phần lớn thu nhập của họ cho thực phẩm. Khi giá tăng, họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc cắt giảm chi tiêu hết mức có thể”, ông Hughes lưu ý trong một email.
Trong giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng giá lương thực 2010-2012, Ngân hàng Phát triển Châu Á ước tính rằng giá lương thực quốc tế tăng 30% trong năm 2011 cũng giá tăng 10% ở các nước Châu Á đang phát triển và làm giảm 0,6 điểm phần trăm tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của một số nước nhập khẩu lương thực trong khu vực.
Nhấn mạnh việc giá lương thực cao hơn có tác động nghiêm trọng như thế nào, ADB giải thích rằng vào thời điểm đó, giá lương thực tăng 10% ở châu Á đang phát triển đã đẩy 64,4 triệu người vào tình trạng nghèo đói, dựa trên chuẩn nghèo 1,25 USD một ngày. Điều đó có nghĩa là tỷ lệ nghèo tăng từ 27% lên 29%.
DỰ TRỮ LƯƠNG THỰC
Tuy nhiên, một số chuyên gia tin rằng, hầu hết các nước châu Á sẽ có thể chống chọi được với cú sốc về nguồn cung gạo.
Erica Tay, chuyên gia kinh tế của Maybank phụ trách Thái Lan và Trung Quốc, cho biết: “Giá chắc chắn đã tăng vọt và điều đó góp phần dẫn đến việc người dân và chính phủ chủ động tích trữ hàng hóa. Nhưng nếu bạn nhìn vào con số cung và cầu tổng thể, các nước châu Á đang ở vị thế rất tốt để vượt qua cú sốc về giá và thắt chặt nguồn cung trên thị trường gạo”.
Bà chỉ ra thực tế là một số quốc gia trong khu vực - chẳng hạn như Thái Lan, Việt Nam, Myanmar và Campuchia - là những nước xuất khẩu ròng. Bà Tay cho biết thêm, Trung Quốc, thị trường gạo lớn nhất thế giới, chỉ nhập khẩu 1% gạo từ Việt Nam và Myanmar, do đó, nước này bị ảnh hưởng rất ít bởi bất kỳ sự thiếu hụt nguồn cung nào từ Ấn Độ.
Hơn nữa, giá gạo tăng đột biến này đang diễn ra trong bối cảnh giá lương thực đang ở mức thấp hơn trên diện rộng, với giá lương thực nói chung, theo chỉ số giá thực phẩm FAO của Liên hợp quốc, đã giảm khoảng 23% so với mức đỉnh hồi tháng 3 năm ngoái.
Nguồn cung gạo ở Trung Quốc đang bị đe dọa khi mức cảnh báo lũ lụt được nâng lên ở 3 tỉnh thành chiếm gần 1/4 sản lượng gạo của cả nước. Tuy nhiên, kho dự trữ gạo của đất nước, có thể đáp ứng hơn 8 tháng so với nhu cầu hàng năm.
Dự trữ lương thực toàn cầu tăng cao, đặc biệt là ở châu Á, sẽ giúp hạn chế sự biến động trong sản xuất và giảm thiểu tác động kinh tế từ quan điểm của người tiêu dùng.
“Về lâu dài, tôi nghĩ chúng ta cần chấp nhận rằng sự gián đoạn liên quan đến khí hậu sẽ ngày càng thường xuyên hơn. Và trên thực tế, các nhà khoa học đã tung ra nhiều giống lúa có khả năng chống chịu được biến đổi khí hậu, đồng thời cố gắng khuyến khích nông dân áp dụng các phương pháp canh tác đổi mới. Nếu việc áp dụng này tăng lên, nó sẽ trả lại một số khả năng dự đoán cho nguồn cung nông nghiệp cũng như có ích cho sinh kế của người nông dân”, chuyên gia kinh tế Erica May nói thêm.